Diễn đàn kinh tế: Giải bài toán thừa, thiếu nước sạch

Theo Báo cáo Tổng điều tra dân số và nhà ở của Tổng cục Thống kê năm 2019, tỷ lệ hộ tiếp cận nước máy hiện nay chỉ chiếm khoảng 52%. Đặc biệt, tỷ lệ hộ gia đình tại thành thị tiếp cận được nước máy đạt 84,2%, còn tại nông thôn chỉ đạt 34,8%. Tỷ lệ cấp giữa thành thị và nông thôn trên toàn quốc cho thấy sự chênh lệch rất lớn.

Tỷ lệ tiếp cận nước sạch tại Việt Nam có sự chênh lệch đáng kể giữa các địa phương với nhau và giữa địa phương so với trung bình toàn quốc, giữa khu vực thành thị và nông thôn của cùng một địa phương. Trong đó, nhóm tiếp cận cao trên 80% gồm các địa phương có tỷ lệ tiếp cận nước sạch trên 80% gồm: TPHCM, Thừa Thiên Huế , Hải Dương , Hải  Phòng , Bà Rịa - Vũng Tàu . Nhóm tiếp cận trung gồm các địa phương có có tỷ lệ tiếp cận nước sạch 50% - 79% như: Bình Dương, Quảng Ninh, Nam Định. Nhóm gồm các địa phương có có tỷ lệ tiếp cận nước sạch dưới 50% là Lâm Đồng (31,9%), Nghệ An , Thanh Hóa , Thái Nguyên,…

Ngay tại Hà Nội, con số được các nhà chuyên môn đưa ra khi phân tích dữ liệu từ điều tra dân số của Tổng cục Thống kê cho thấy, ngay tại Hà Nội, năm 2019 mới chỉ có gần 35% dân ngoại thành được dùng nước máy. Giá nước sạch tại Hà Nội 10 năm qua cũng không thay đổi. Đây là ví dụ điển hình cho việc giá nước sinh hoạt đang ở mức thấp và ít được điều chỉnh, cho thấy cấu trúc bất hợp lý của thị trường nước sạch hiện nay. Mặc dù thị trường nước sạch đã được xã hội hoá và nhà nước thiếu nguồn lực đầu tư thì việc thu hút đầu tư tư nhân vẫn chưa hiệu quả. Cả doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp nhà nước đều phải đối mặt với nhiều khó khăn như: giá mua, khối lượng nước được mua, giá nước bán ra thấp, không đủ khả năng mở rộng diện cấp nước.

Nghị quyết số 16 được Quốc hội khóa 15 ban hành năm 2021 yêu cầu đến năm 2025 phải có 95 - 100% dân cư thành thị và 93 - 95% dân nông thôn có nước sạch để dùng. Đến thời điểm năm 2019 mới chỉ khoảng 53% dân số có nước máy để dùng. Như vậy, Việt Nam đang đứng trước nguy cơ không đạt được mục tiêu đặt ra về tỷ lệ người dân được dùng nước sạch. Thu hút đầu tư tư nhân, gắn với tổ chức lại thị trường nước sạch được coi là chìa khóa để đạt mục tiêu. Bảo vệ lợi ích nhà đầu tư, bảo đảm bình đẳng giữa Nhà nước và tư nhân khi bước vào quan hệ hợp đồng như thế nào? Đây là câu hỏi đặt ra để thu hút các nhà đầu tư tư nhân tham gia vào thị trường quan trọng này.

Cùng bàn luận chủ đề này xin được giới thiệu 2 vị khách mời là:

Ông NGUYỄN QUANG HUÂN-  Ủy viên Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Phó Chủ tịch Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam;

Ông NGUYỄN QUANG ĐỒNG- Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chính sách và Phát triển Truyền thông IPS

Mời quý vị và các bạn cùng theo dõi nội dung cuộc trò chuyện!  

Hiện nay, có một thực tế thị trường nước sạch trong vòng luẩn quẩn: giá bán thấp thì doanh nghiệp không đủ tiền; mà Nhà nước lại cũng không bù lỗ vào giá bán. Không đủ tiền thì không cải tiến được công nghệ. Chất lượng nước vì thế bị ảnh hưởng. Hậu quả là sức khỏe người dùng nước hiện tại cũng bị ảnh hưởng theo.

Tại tỉnh Lâm Đồng, Nhà nước đã đầu tư hàng trăm công trình nước sạch sinh hoạt phục vụ người dân nông thôn. Tuy nhiên, hàng loạt công trình không phát huy hiệu quả, thậm chí bỏ hoang gây lãng phí ngân sách. Trong khi đó, để thu hút tư nhân lại rất khó. Điều này ảnh hưởng đến đời sống của người dân khiến cho địa phương này chỉ đạt gần 32% người dân tiếp cận với nước sạch.    

Gia đình chị Lơ Mu K’Tuyn cũng như hơn 220 hộ dân được cấp đất tái định cư tại thôn Đạ Nghịt, xã Lát, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng hơn 10 năm nay. Thiếu nước sinh hoạt, gia đình chị cũng như các hộ dân trong thôn đã phải vay ngân hàng để khoan giếng, đấu nối sử dụng chung, nhưng nguồn nước vẫn không đảm bảo vệ sinh.

CHỊ LƠ MU K’TUYN, Thôn Đạ Nghịt, xã Lát, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng: “Trước đây gia đình hứng nước mưa để sử dụng nhưng không đủ vào mùa khô. Gia đình đã vay mượn tiền ngân hàng để khoan giếng nhưng nguồn nước bị nhiễm phèn nặng. Gia đình vẫn phải sử dụng vì không có nguồn nước nào khác”.

ANH HOÀNG VĂN VƯƠNG, Thôn Đạ Nghịt, xã Lát, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng: “Trong này nguồn nước giếng khoan vẫn có mùi hôi, mùi tanh, hay đóng phèn, giặt quần áo thì bị ố vàng, cặn rất nhiều. Mong cơ quan chính quyền địa phương hỗ trợ cho nguồn nước sạch để bà con sinh sống, sinh hoạt cho đảm bảo vệ sinh.”

Trong khi nhiều hộ dân phải vay mượn tiền bạc để khoan giếng thì toàn huyện Bảo Lâm có tới 19/48 công trình nước sạch nông thôn hoạt động hiệu quả.

Ông TRẦN QUỐC TUẤN, Phó Giám đốc BQL Dự án, Đầu tư và Xây dựng công trình công cộng huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng: “Nguyên nhân chủ quan và khách quan kết hợp nhiều, trong đó có vấn đề quản lý. Hiện nay giao địa phương quản lý vấn đề nhân lực. Bên cạnh đó, kinh nghiệm nhân lực và chi phí trả lương cho người quản lý vận hành công trình nên nhiều người bỏ dở. Trong khi đó, giếng khoan thì nhiễm phèn, không hợp vệ sinh, dân không dùng, các công trình giếng khoan bị hư hỏng nhiều”.

Toàn tỉnh Lâm Đồng hiện có 256 công trình cấp nước nông thôn tập trung gồm 57 công trình cấp nước tự chảy, 199 công trình giếng khoan. 31 xã đấu nối với 12 nhà máy nước của 7 công ty cấp nước tại các huyện, thành phố. Tuy nhiên đến nay, chỉ có 94 công trình hoạt động tương đối bền vững, 88 công trình hoạt động kém bền vững, 74 công trình không hoạt động. Nguyên nhân là do sử dụng lâu năm, công tác duy tu, bảo trì không kịp thời. Đội ngũ quản lý, vận hành, khai thác lại chưa đáp ứng yêu cầu. Việc đầu tư nâng cấp sửa chữa hoặc xây mới chưa đồng bộ.

Ông NGUYỄN MINH TRƯỜNG, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Lâm Đồng: “Ta phải tiếp tục đầu tư các công trình nước sạch. Đầu tư phải đồng bộ, nghĩa là khi đầu tư công trình phải cho ra sản phẩm cuối cùng là nước sạch; cần quan tâm vấn đề duy tu bảo dưỡng kịp thời những công trình xuống cấp; đặc biệt nâng cao trình độ người quản lý vận hành công trình nước.”

Bất cập từ công tác quản lý, sử dụng kém hiệu quả đã đành. Nhưng theo nhiều chuyên gia, bất cập  thiếu nước sạch cũng đến từ việc nhiều đơn vị kinh doanh nước khi mua công suất nước lớn nhưng bán ra vẫn chưa tương xứng. Đồng thời, mức giá bán lẻ nước, đặc biệt là nước sinh hoạt còn thấp và ít được điều chỉnh.

NGHỊCH LÝ NƯỚC: THỪA CÔNG SUẤT, DÂN VẪN KHÁT NƯỚC

Mời quý vị tiếp tục theo dõi nội dung cuộc trò chuyện với 2 chuyên gia!

Còn hơn 31 triệu người nông thôn chưa được dùng nước sạch. Đó là số liệu được Bộ Nông nghiệp & phát triển nông thôn đưa ra tại đề án Cấp nước sạch nông thôn giai đoạn 2021-2025. Chưa được dùng nước sạch cũng đồng nghĩa, người dân phải chấp nhận sống chung với nguồn nước chưa được xử lý an toàn. Trước thực trạng này, nhiều nhà máy nước đã gấp rút được xây dựng với hy vọng nâng cao chất lượng sống cho người dân. Vậy mà, theo thống kê, có tới 1/3 số công trình cấp nước xây dựng trong giai đoạn này chưa phát huy tác dụng, gây ra lãng phí. Sự bất cập của việc cấp nước sạch nông thôn còn nằm ở quy định phân vùng cấp nước,  khiến cho nơi cần thì không có, nơi có lại chưa thể chia cho nơi cần.    

Nước giếng khoan vẫn là nguồn nước sinh hoạt chính của gần 26 nghìn người dân huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Toàn bộ các xã thị trấn của huyện này đã về đích nông thôn mới. Nhưng đến nay, hơn 95% người dân vẫn chưa được dùng nước sạch.

Chỉ cách nhau có 1 con đường, mà xã bên đã có nước sạch được vài năm, khiến ông Dự không khỏi sốt ruột. 

Ông NGÔ VIẾT DỰ, Xã Hải Vân, Huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định:Đường nước sạch người ta đi cạnh cái quốc lộ này rồi. Thì tôi xin đấu nối sang đây có được không thì các anh ấy bảo không được vì đây là địa bàn khác. Thì tôi bảo xin để dùng nước sạch mà sao khó khăn như thế, thì tôi cũng không hiểu được lí do thế nào. ”

Trước mong mỏi của người dân, đơn vị này liên tục nhận được nhiều yêu cầu xin cấp nước. Việc này vốn dĩ khả thi, vì hiện nhà máy mới chỉ hoạt động có 20% công suất. Vậy nhưng, doanh nghiệp vẫn chưa thể cấp nước sạch cho dân bởi theo quy định phân vùng cấp nước, nhà máy đặt ở địa phương nào, thì phục vụ người dân ở khu vực đó. 

Ông MAI VĂN QUYẾT, Giám đốc Sở Kế hoạch & đầu tư tỉnh Nam Định:Nước là một mặt hàng có điều kiện. Cho nên việc cấp nước là phải tránh tranh chấp. Nên phải có phân vùng cung cấp nước".

Ông HOÀNG TRUNG DŨNG, PGĐ Công ty CP nước sạch Hoàng Gia 2: Có những quy định đấy đâm ra khó cho doanh nghiệp. Nếu như không có thì giữa hộ dân và doanh nghiệp có thể trao đổi trực tiếp và mình dùng nước trực tiếp như vậy thì dễ hơn. Mặc dù đường ống đi qua nhà người ta mà người ta không được dùng. Dân người ta cũng hơi bức xúc về việc đấy.”

Câu hỏi chưa có lời đáp, vì những mong mỏi chưa tìm được tiếng nói chung. Chừng nào nơi thừa chưa thể chia cho nơi thiếu thì vẫn còn tồn tại nghịch lí: kẻ ăn không hết, người lần chẳng ra.

Mời quý vị và các bạn tiếp tục theo dõi nội dung cuộc trò chuyện với 2 vị khách mời của chương trình!

NGHỊCH LÝ THỪA THIẾU NGUỒN CUNG NƯỚC SẠCH  

Việc thiếu hệ thống vệ sinh và nước sạch ảnh hưởng đến sức khỏe và sự phát triển của hàng tỷ người, đồng thời có tác động lớn đến việc thực hiện các quyền khác của con người. Người dân là người có quyền và Chính phủ là người có nghĩa vụ cung cấp các dịch vụ về nước. Ngoài ra, người dân có quyền có thể yêu cầu quyền của mình và người có nghĩa vụ phải đảm bảo các quyền về nước và vệ sinh một cách bình đẳng và không phân biệt đối xử. 

Ghi nhận ý kiến của người dân ngay sau đây về vấn đề này.

Anh K’CƯỜNG, Thôn 4, xã Lộc Ngãi, huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng: “Nhà mình phải khoan giếng để có nước sạch. Mong muốn Nhà nước tạo điều kiện để có nước sạch dùng". 

Bà MAI THỊ HOA, Xã Hải Vân, Hải Hậu, Nam Định: Nói chung (nước đang dùng) không an toàn đâu nhưng mà giờ bí rồi thì cũng phải chấp nhận. Nếu nước giếng sạch hoặc mua được nước sạch thì ăn sẽ yên tâm hơn nhiều!”.

Ông NGUYỄN ĐÌNH CUNG, Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Cần thiết phải ban hành Luật Cấp, thoát nước, như là Luật Điện lực, và xây dựng những định chế thị trường hiện đại, theo thông lệ quốc tế. Cùng với đó là hệ thống quản lí Nhà nước phải được thay đổi, tập trung hơn, hiệu lực hơn, chuyên nghiệp hơn. Như vậy người dân sẽ được hưởng lợi hơn trong việc cấp nước".

NGƯỜI DÂN VÀ QUYỀN TIẾP CẬN NƯỚC SẠCH  

Mời quý vị theo dõi tiếp nội dung cuộc trò chuyện!

Để mở rộng nguồn cung nước sạch, bảo đảm được quyền tiếp cận nước cho người dân; để tư nhân tham gia; các khuôn khổ, quy định cho thị trường cần được hoàn thiện thêm. Hiện chỉ có Nghị định 117/2007/NĐ-CP điều chỉnh trực tiếp vấn đề quản lý cung cấp, khai thác nguồn nước, như vậy chưa đủ “tầm.”

Cơ chế đầu tư theo phương thức PPP trong cung cấp dịch vụ nước sạch, phải được triển khai như thế nào để đạt được mục tiêu nước sạch cho toàn dân đang là câu hỏi không dễ trả lời. Tình trạng “tranh tối, tranh sáng” đang khiến thị trường cung cấp dịch vụ về nước khó phát triển, tạo ra rủi ro, còn các nhóm trục lợi chính sách sẽ tìm cách cạnh tranh không lành mạnh.

Thu hút đầu tư tư nhân là cần thiết để mở rộng nguồn cung nước sạch, bảo đảm được quyền tiếp cận nước cho người dân. Tuy nhiên, để tư nhân tham gia hiệu quả thị trường này, các khuôn khổ, quy định cho thị trường, cần được hoàn thiện thêm. Bởi vậy, cần có đánh giá toàn diện và thiết kế một hệ thống chính sách tổng thể để hoàn chỉnh thị trường kinh doanh nước sạch. Nghĩa là, việc xây dựng Luật về cấp nước và xử lý nước, mà Chính phủ đã yêu cầu và Bộ Xây dựng đang triển khai, là cấp thiết. Có luật mới điều chỉnh được từ khâu tổ chức đến điều tiết, vận hành thị trường cấp nước và xử lý nước sinh hoạt, tương tự như ngành điện có Luật Điện lực. 

Đến đây chương trình Diễn đàn kinh tế xin phép được khép lại, một lần nữa xin cảm ơn 2 vị khách mời đã tham gia chương trình. Xin chào và hẹn gặp lại trong chương trình tiếp theo.    

Nguyễn Duyên