Góc nhìn hôm nay: Lỡ hẹn mục tiêu 93% nước sạch trở lên

Việt Nam đang có nguy cơ lỡ hẹn đối với mục tiêu Nghị quyết số 16/2021/QH15 của Quốc hội, đó là đến năm 2025, khoảng 95% - 100% người dân thành thị và 93% - 95% người dân nông thôn, được dùng nước sạch. Đây là đánh giá của các chuyên gia khi thảo luận về quyền tiếp cận nước sạch và thị trường nước sạch ở Việt Nam mới đây. Có ý kiến cho rằng cần có luật về nước sạch.

Theo Báo cáo Tổng điều tra dân số và nhà ở của Tổng cục Thống kê năm 2019, tỷ lệ hộ dân tiếp cận nước máy chỉ chiếm khoảng 52%. Đặc biệt, tỷ lệ hộ gia đình tại thành thị tiếp cận được nước máy còn đạt 84,2%, nhưng tại nông thôn chỉ đạt 34,8%, là sự chênh lệch quá lớn.  

Tại tỉnh Lâm Đồng, Nhà nước đã đầu tư hàng trăm công trình nước sạch phục vụ người dân nông thôn, thế nhưng, hàng loạt công trình không phát huy hiệu quả, thậm chí bỏ hoang gây lãng phí ngân sách, ảnh hưởng đến đời sống của người dân, khiến địa phương này chỉ đạt gần 32% người dân tiếp cận với nước sạch.      

DÂN THIẾU NƯỚC BÊN CÔNG TRÌNH CẤP NƯỚC BỎ HOANG

Gia đình chị Lơ Mu K’Tuyn cũng như hơn 220 hộ dân được cấp đất tái định cư tại thôn Đạ Nghịt, xã Lát, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng hơn 10 năm nay, nhưng vẫn đang sống trong cảnh thiếu nước sinh hoạt. Để có nguồn nước sử dụng, gia đình chị cũng như các hộ dân trong thôn đã phải vay hàng chục triệu đồng của ngân hàng để khoan giếng, đấu nối sử dụng chung, nhưng nguồn nước vẫn không đảm bảo vệ sinh.

CHỊ LƠ MU K’TUYN - Thôn Đạ Nghịt, xã Lát, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng: “Trước đây, gia đình hứng nước mưa để sử dụng nhưng không đủ vào mùa khô. Gia đình đã vay mượn tiền ngân hàng để khoan giếng nhưng nguồn nước bị nhiễm phèn nặng. Gia đình vẫn phải sử dụng vì không có nguồn nước nào khác”.

Anh HOÀNG VĂN VƯƠNG - Thôn Đạ Nghịt, xã Lát, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng: Trong này, nguồn nước giếng khoan vẫn có mùi hôi, mùi tanh, hay đóng phèn, giặt quần áo thì bị ố vàng, cặn rất nhiều. Mong cơ quan chính quyền địa phương hỗ trợ cho nguồn nước sạch để bà con sinh sống, sinh hoạt cho đảm bảo vệ sinh.”

Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Lạc Dương thừa nhận, người dân đến nay vẫn chưa được sử dụng nguồn nước sạch, còn địa phương đang tìm các giải pháp để hỗ trợ.

Ông HOÀNG XUÂN HẢI - Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng: “UBND huyện đang chỉ đạo các ngành và cũng đã khảo sát và đưa ra 2 tình huống. Phương án thứ nhất là sẽ đấu nối vào nhà máy nước Đan Kia – Suối Vàng; phương án thứ 2 là xây dựng nhà máy nước sạch tại thôn Păng Tiêng Ruộng để đảm bảo cung cấp nước sạch cho các thôn tại xã Lát.”

Còn tại xã Mê Linh, huyện Lâm Hà, công trình nước sinh hoạt tự chảy ở thôn Cổng Trời từng cung cấp nguồn nước cho trên 100 hộ dân đã ngừng hoạt động hơn 6 năm nay. 

Tương tự, hàng trăm người dân thôn 4, xã Lộc Ngãi, huyện Bảo Lâm cũng rơi vào cảnh thiếu nước sinh hoạt nghiêm trọng khi giếng khoan tại đây không còn sử dụng được. Nhiều hộ dân phải vay mượn tiền bạc để khoan giếng. Toàn huyện Bảo Lâm chỉ còn 19/48 công trình nước sạch nông thôn hoạt động hiệu quả.

Anh K’CƯỜNG - thôn 4, xã Lộc Ngãi, huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng: “Gia đình tôi phải vay mướn nhiều chỗ để khoan giếng hết 30 triệu đồng mới có nước sinh hoạt…”.

Ông TRẦN QUỐC TUẤN - Phó Giám đốc BQL Dự án, Đầu tư và Xây dựng công trình công cộng huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng: Các công trình này phần lớn do xã quản lý. Kinh phí duy tu bảo dưỡng không có, lại sử dụng lâu năm. Người vận hành công trình này không có lương nên hiệu quả thấp. Cần đầu tư kinh phí để đầu tư sửa chữa hoặc xây mới các công trình nước sạch phục vụ người dân.”

Toàn tỉnh Lâm Đồng có 256 công trình cấp nước nông thôn tập trung gồm 57 công trình cấp nước tự chảy, 199 công trình giếng khoan. 31 xã đấu nối với 12 nhà máy nước của 7 công ty cấp nước tại các huyện, thành phố. Tuy nhiên, đến nay chỉ có 94 công trình hoạt động tương đối bền vững, 88 công trình hoạt động kém bền vững, 74 công trình không hoạt động. Nguyên nhân là do sử dụng lâu năm, công tác duy tu, bảo trì không kịp thời; đội ngũ quản lý, vận hành, khai thác chưa đáp ứng yêu cầu; việc đầu tư nâng cấp sửa chữa hoặc xây mới, chưa đồng bộ.

Ông NGUYỄN MINH TRƯỜNG - Phó GĐ Trung tâm Khuyến nông, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Lâm Đồng: “Phải đẩy mạnh đầu tư đồng bộ, nghĩa là khi đầu tư công trình phải cho ra sản phẩm cuối cùng là nước sạch; duy tu bảo dưỡng kịp thời những công trình xuống cấp; người quản lý vận hành công trình nước phải có tay nghề; đẩy mạnh công tác tuyên truyền sử dụng nguồn nước tiết kiệm…thì các công trình nước thực sự mới phát huy hiệu quả.”

Rõ ràng, để các công trình cấp nước sạch tập trung hoạt động hiệu quả, cần có sự quản lý chặt chẽ, đồng bộ của cơ quan quản lý, đẩy mạnh tuyên truyền vận động người dân ý thức bảo vệ tài sản công. Khảo sát kỹ trước khi đầu tư xây dựng và có giải pháp quản lý vận hành hợp lý để tránh lãng phí trong đầu tư xây dựng.

RỐI LOẠN THỊ TRƯỜNG NƯỚC SẠCH

Giá nước sạch đang được điều tiết bởi Nhà nước. Bộ Tài chính quy định khung giá, phương thức tính giá, lợi nhuận định mức. UBND cấp tỉnh quyết định phê duyệt giá nước sạch tại địa phương, nhưng không vượt quá khung giá do Bộ Tài chính quy định. Như vậy, giá nước ở các địa phương là khác nhau và không thống nhất. 

Từ thực tế kinh doanh, phần lớn các doanh nghiệp cho rằng, mức giá bán lẻ nước, đặc biệt là nước sinh hoạt, cơ bản là thấp. Thêm vào đó, tại nhiều địa phương, mức giá này cũng ít được điều chỉnh. Thậm chí, có những địa phương như Hà Nội, không điều chỉnh giá nước sinh hoạt gần 10 năm qua nên doanh nghiệp không đủ chi phí. Nhưng nếu giá quá cao thì người dân không tiếp cận được nguồn nước sạch. Ở đây, vai trò điều tiết, quản lý nhà nước cũng bị phân mảnh do có quá nhiều đầu mối, khiến việc lập dự toán đầu tư mới của các doanh nghiệp muốn đầu tư cũng gặp khó khăn.  

Cùng với đó, sử dụng nước lãng phí hay nguy cơ ô nhiễm nguồn cấp nước ngày càng trầm trọng. Trong khi đó, khoa học công nghệ đầu tư của ngành nước cũng đang lạc hậu so với thế giới…đặt ra những thách thức to lớn với chính ngành này.   

Theo các chuyên gia, đối với thị trường cấp nước sạch tại Việt Nam, tỷ lệ cấp giữa thành thị và nông thôn trên toàn quốc cho thấy sự chênh lệch tới hơn gấp đôi: Hơn 84% so với gần 35% bởi đầu tư vào nông thôn, vùng xa thường khó khăn, không có lãi.

Ông NGUYỄN QUANG ĐỒNG - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chính sách và Phát triển Truyền thông: “Tiến trình xã hội hóa dịch vụ công nước sạch đã không đi kèm với việc xây dựng một cấu trúc thị trường cung cấp dịch vụ nước sạch hợp lý, cụ thể trong khi nhà nước thiếu nguồn lực đầu tư thì thị trường cũng không thu hút hiệu quả đầu tư của tư nhân. Doanh nghiệp nhà nước cũng khó khăn khi giá nước thấp, không đủ khả năng mở rộng diện tích cấp nước”.

Giá bán lẻ nước hiện nay, đặc biệt là nước sinh hoạt, cơ bản đang ở mức thấp và đây là cấu trúc bất hợp lý. Mặc dù đã được xã hội hoá, nhưng chưa thu hút tư nhân đầu tư vì vướng cơ chế giá mua, khối lượng nước được mua, giá nước.  

Ông NGUYỄN QUANG ĐỒNG - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chính sách và Phát triển Truyền thông: “Bài toán đặt ra là làm thế nào để huy động nguồn vốn đầu tư tư nhân vào lĩnh vực này. Khi nhà nước thiếu tiền, có thể huy động nguồn vốn đầu tư tư nhân cho đường ống. Vấn đề ở đây là phải có cơ sở pháp lý để có thể rõ ràng vai trò của đầu tư tư nhân cho phần đường ống, bởi vốn dĩ đây là phần việc của Nhà nước".

Đã đến lúc cần một văn bản ở cấp độ luật để tạo lập khuôn khổ thống nhất, minh bạch cho thị trường nước sạch. Đây là cơ sở cần thiết để mở rộng nguồn cung nước sạch, bảo đảm quyền tiếp cận nước của người dân. 

Ông NGUYỄN ĐÌNH CUNG - nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương: “Cần thiết phải ban hành luật về cấp thoát nước, như là Luật Điện lực, tức là xây dựng những định chế thị trường mang tính hiện đại, theo thông lệ quốc tế. Cùng với đó là hệ thống quản lí phải được thay đổi tập trung hơn, hiệu lực hơn. Như vậy người dân sẽ được hưởng lợi hơn trong việc cấp nước".

Đang có sự chênh lệch đáng kể tỷ lệ tiếp cận nước sạch. Nhóm tiếp cận cao trên 80% là TP.HCM, Thừa Thiên-Huế, Hải Dương, Hải Phòng, Bà Rịa-Vũng Tàu. Nhóm tiếp cận có tỷ lệ 50% - 79% là Hà Nội, Bình Dương, Quảng Ninh, Nam Định. Nhóm dưới 50% là Lâm Đồng, Nghệ An, Thanh Hóa, Thái Nguyên. Nói đang rối loạn thị trường nước sạch cũng không sai.

Dù chủ thể thực hiện cung cấp dịch vụ công như nước sạch, là Nhà nước, tư nhân hay các thiết chế xã hội dân sự, thì trách nhiệm đảm bảo cung cấp thực hiện dịch vụ vẫn là của Nhà nước, với 3 nguyên tắc phải tuân thủ để thiết kế thị trường này, gồm: Tính liên tục; quyền tiếp cận bình đẳng của mọi người dân và giá cả phù hợp.  

Điều này có nghĩa, nếu chưa có nước sạch thì Nhà nước phải đảm bảo cho người dân được dùng nước, với giá cả phải chăng và không để xảy ra tình trạng mất nước trong quá trình sử dụng dịch vụ. 

Tuy nhiên, đối chiếu với các nguyên tắc này, khả năng tiếp cận lẫn tính bình đẳng trong tiếp cận dịch vụ nước sạch đều chưa đạt được mục tiêu mong muốn. Đây là do một phần khi thực hiện xã hội hóa, xây dựng thị trường dịch vụ công về nước sạch, chưa thực sự hợp lý và hiệu quả.    

Để tìm hiểu thêm về vấn đề này, Truyền hình Quốc hội đã có trao đổi với Ông NGUYỄN QUANG HUÂN, Ủy viên Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội.

CÓ MỘT LUẬT RIÊNG VỚI NGÀNH NƯỚC

Phóng viên: Thưa ông, tuy còn 3 năm nữa nhưng mục tiêu người dân được sử dụng nước sạch theo Nghị quyết của Quốc hội có vẻ đã ngoài tầm với. Theo ông, là do nguyên nhân chính nào?

Ông NGUYỄN QUANG HUÂN - Ủy viên Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội: “Sử dụng nước sạch chúng ta phải phân ra là nước tại đô thị và nước tại vùng nông thôn. Theo số liệu của Bộ Xây dựng, chúng ta đang cấp cho khoảng 92% dân số đô thị, nó không xa với chỉ tiêu nghị quyết chúng ta đưa ra từ 95% -100% dân số đô thị được cấp vào năm 2025. 

Nhưng nước nông thôn lại hơi bị xa so với khoảng cách chúng ta cần đạt tới. Mục đích của chúng ta là cấp tới 85% dân số nông thôn, nhưng hiện nay, theo số liệu cả nước sạch và nước hợp vệ sinh thì chúng ta suýt soát có thể đạt tới số 85%, nhưng nếu chúng ta chỉ tính riêng dùng nước sạch thì mới chỉ đạt được hơn 50%. 

Nếu chúng ta đưa chỉ tiêu nước hợp vệ sinh, thì định nghĩa thế nào là nước hợp vệ sinh cần phải phân định rõ. Nếu chấp nhận nước hợp vệ sinh cho dân cư nông thôn vùng sâu vùng xa thì có thể đạt được, chứ không phải dứt khoát không đạt được chỉ tiêu này”.

Phóng viên: Các chuyên gia, nhà quản lý nghiêng về góc độ phải xây dựng một luật riêng về cung cấp và xử lý nước sinh hoạt. Quan điểm của ông như thế nào về tính khả thi? 

Ông NGUYỄN QUANG HUÂN - Ủy viên Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội: “Ngành nước hiện nay quản lý rất không thống nhất ở các bộ ngành. Bộ Tài nguyên và Môi trường quản lý về tài nguyên. Bộ Xây dựng quản lý nước về đô thị, Bộ Nông nghiệp quản lý nước nông thôn. Cơ chế kiểm soát của Bộ Y tế với tất cả các thành phần như thế nào với cả công ty tư nhân và nếu như phụ thuộc nhiều vào con người như thế thì chúng ta có đảm bảo đưa ra hệ thống đánh giá toàn quốc về tiêu chuẩn nước sạch cho người sử dụng hay không? 

Mà chúng ta ít thiết bị đo đếm công nghệ cao thì rất khó thực hiện trong điều hành. Tôi nghĩ rằng, để làm được việc như thế này chúng ta không thể nói đơn lẻ, chúng ta phải có luật hóa. Việc thống nhất có luật cấp thoát nước trong bối cảnh hiện nay là hết sức cần thiết”.

Cơ chế đầu tư theo phương thức đối tác công - tư (PPP) cung cấp dịch vụ nước sạch, phải được triển khai như thế nào để đạt được mục tiêu nước sạch cho toàn dân, đang là câu hỏi không dễ trả lời. Tình trạng “tranh tối, tranh sáng” đang khiến thị trường cung cấp dịch vụ về nước khó phát triển, tạo ra rủi ro, còn các nhóm trục lợi chính sạch sẽ lách luật, tìm cách cạnh tranh không lành mạnh. 

Thu hút đầu tư tư nhân là cần thiết để mở rộng nguồn cung nước sạch, bảo đảm được quyền tiếp cận nước cho người dân. Tuy nhiên, để tư nhân tham gia hiệu quả thị trường này, các khuôn khổ, quy định cho thị trường cần được hoàn thiện thêm. Bởi vậy, cần có đánh giá toàn diện và thiết kế một hệ thống chính sách tổng thể để hoàn chỉnh thị trường kinh doanh nước sạch. Từ đó, đòi hỏi xây dựng luật về cấp nước và xử lý nước mà Chính phủ đã yêu cầu và Bộ Xây dựng đang triển khai, là cấp thiết. Có luật, mới điều chỉnh được từ khâu tổ chức đến điều tiết, vận hành thị trường cấp nước và xử lý nước sinh hoạt, tương tự như ngành điện có Luật Điện lực vậy.